Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua một chặng đường phát triển dài 25 năm, từ khi hình thành đến nay, và đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tổng Giám đốc Công ty TNHH Chứng khoán ACB (ACBS) Nguyễn Đức Hoàn đã chia sẻ về sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong suốt thời gian qua.

Nhìn lại giai đoạn đầu, thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất sơ khai với vốn hóa của VN INDEX chỉ đạt chưa tới 300.000 tỷ đồng vào năm 2007, và tỷ trọng vốn hóa/GDP chỉ đạt 13%. Tuy nhiên, tính tới hết tháng 5 năm 2025, vốn hóa của 3 sàn đã đạt 8,2 triệu tỷ đồng, chiếm 68% GDP. Số lượng nhà đầu tư cũng tăng trưởng ấn tượng, từ 3.000 tài khoản nhà đầu tư cá nhân vào năm 2000, đến hết tháng 6/2025, đã có hơn 10,2 triệu tài khoản của nhà đầu tư cá nhân trong nước, tương đương 10% dân số. Số lượng nhà đầu tư nước ngoài cũng tăng nhanh chóng, đạt 48,6 nghìn tài khoản vào cuối tháng 6/2025.
Ông Hoàn nhận định rằng, trong giai đoạn từ năm 2025 đến năm 2030, giá trị vốn hóa của thị trường còn rất nhiều room để tiếp tục tăng trưởng. Quy mô huy động vốn mới của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào triển vọng của thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn 2015-2020, quy mô huy động vốn mới của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chỉ khoảng 2.000 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, khi thị trường bùng nổ vào năm 2021-2022, bình quân mỗi năm huy động 20.000 đến 30.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, đến cuối năm 2024, có 41 doanh nghiệp niêm yết đạt mức vốn hóa lớn hơn 1 tỷ USD. Trong đó, có những doanh nghiệp đạt mức vốn hóa trên 10 tỷ USD như VCB, BID, VIC, VHM… Tuy nhiên, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Theo báo cáo của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước, trong giai đoạn 2016-2020, có khoảng 180 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, quy mô vốn hóa gần 500.000 tỷ đồng, nhưng trong giai đoạn 2021-2022 thì chỉ có 5 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa với quy mô vốn hóa rất thấp (~600 tỷ đồng).
Để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán, ông Hoàn cho rằng cần tập trung vào những nhóm giải pháp sau: Phát triển chất lượng thị trường theo hướng nâng tầm minh bạch, chuẩn mực và hiệu quả; đa dạng hóa sản phẩm tài chính; phát triển quy mô thị trường, mở rộng độ sâu và bề rộng; tăng quy mô và năng lực trung gian tài chính; hội nhập sâu với thị trường tài chính quốc tế; tích hợp công nghệ tài chính (fintech); và phát triển các trung tâm tài chính khu vực.
Trong thời gian tới, khi thị trường chứng khoán Việt Nam được nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp, vai trò của các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng. Điều này đòi hỏi thị trường chứng khoán Việt Nam phải tiếp tục cải thiện và nâng cao chất lượng để thu hút và đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế.